Công ty nuôi cấy ngọc trai Akoya từ năm 1996. Chính thức thành lập doanh nghiệp năm 1999, có trụ sở tại Hà Nội, văn phòng đại diện tại Quảng Ninh và TP Hồ Chí Minh, có hệ thống các cửa hàng - đại lý bán sản phẩm trên toàn quốc. Sự phát triển của công ty trong những năm qua dựa trên nền tảng nghiên cứu khoa học ứng dụng và đầu tư khép kín nghề nuôi cấy ngọc trai. Công ty đã và đang hoạt động tích cực vào việc phát triển bền vững nghề nuôi cấy ngọc trai, là doanh nghiệp hàng đầu trong lĩnh vực ngọc trai tại Việt Nam. Đến nay, cơ sở vật chất của công ty đủ nuôi cấy 25 vạn con/năm. Quy trình kỹ thuật nuôi đã ổn định, năng suất cao, chất lượng ngọc tốt… Trong sản xuất kinh doanh công ty coi trọng chất lượng, phấn đấu hạ giá thành sản phẩm và đảm bảo chữ tín với khách hàng. Nên ngọc do công ty sản xuất ra đã được khách hàng trong và ngoài nước tiêu thụ. Hiện nay, công ty đang thực hiện Dự án Đầu tư mở rộng sản xuất gắn với du lịch làng nghề nuôi cấy ngọc trai biển với diện tích mặt nước 280.000m2. Dưới đây là một số thông tin về dự án: 1. Đánh giá về giá trị kinh tế:Có thể nói không một đối tượng nuôi trồng thuỷ sản nào được con người nghiên cứu khai thác hết tiềm năng như con trai. Ngọc trai làm hàng trang sức cao cấp là chủ yếu, tất cả các sản phẩm phụ còn lại như hạt ngọc trai tự nhiên, vỏ trai, ruột trai, cơ khép vỏ trai được sử dụng làm thuốc chữa bệnh, làm hàng mỹ phẩm, làm hàng thủ công mỹ nghệ, làm thức ăn cho con người và gia súc. Trong thực tế, chất “MiGi-K” là một hợp chất chiết xuất từ thịt trai, chứa những hoạt tính sinh học, được coi là một dược phẩm có hoạt tính miễn dịch có tác dụng chống bệnh ung thư - cải thiện phục hồi số lượng bạch cầu và adaptogeme. Sau khi sản xuất chất “MiGi-K”, các chất còn lại được sử dụng trong chăn nuôi gia cầm, gia súc, nuôi trồng thuỷ sản. Hàm lượng đạm trong cơ khép vỏ trai cao, từ 52% - 55%, giá bán ở Nhật Bản 23USD/kg, ở Việt Nam 70.000đ/kg. 2. Đánh giá thị trường tiêu thụ:Ngọc trai chủ yếu để làm hàng trang sức cao cấp. Nguồn tiêu thụ lớn ở các nước công nghiệp phát triển cao, như các nước Bắc Âu, Bắc Mỹ. Hầu hết các nước có ngọc trai thô đã xuất khẩu sang Nhật Bản, Trung Quốc. Tại đây, ngọc trai thô qua công nghệ sau thu hoạch, được nâng cấp về chất lượng, đẹp đến mức hoàn hảo, lại được tái xuất khẩu đi các nước trên thế giới. 3. Nhu cầu về ngọc trai hiện nay:Nhu cầu ngọc trai trên thị trường còn rất lớn. Tại Mỹ hàng trang sức ngọc trai chỉ chiếm 5% thị phần so với các hàng trang sức khác. Nhưng từ năm 1998 đến nay, thị trường Mỹ đã tiêu thụ 98% ngọc trai Akoya và 49% ngọc trai nước ngọt của thế giới. Dự đoán trong những năm tới, kinh tế thế giới tiếp tục phát triển. Dân trí của các nước, nhất là các nước đang phát triển ngày càng được nâng cao. Nhu cầu về hàng trang sức ngọc trai ngày càng lớn. 4. Tiềm năng to lớn của nghề nuôi cấy ngọc trai ở Việt Nam:- Tiềm năng nuôi cấy ngọc trai ở nước ta rất lớn. Kể cả nuôi cấy ngọc trai nước ngọt và nuôi cấy ngọc trai biển.- Về nguồn lợi trai ngọc, từ Quảng Ninh đến Kiên Giang, vùng biển nào cũng có loài trai biển cấy có thể cho ra ngọc. Chủ yếu là 4 loài sau: P.martensii, P.penguin, P.margaritifera cho ra ngọc đen và loài P.maxima cho ngọc có kích thước lớn. Trên thế giới cũng nuôi cấy ngọc trai từ 4 loài trai này. Loài trai zebra sống ở sông, để làm nhân cấy ngọc rất tốt. Chúng phân bố rất hẹp, mới phát hiện thấy có ở miền Trung nước Mỹ, Vân Nam – Trung Quốc và miền Bắc Việt Nam.- Về mặt nước biển: Chỉ tính riêng vùng biển Quảng Ninh và Hải Phòng, có khoảng 150.000ha mặt nước có thể nuôi cấy 500 triệu con trai loài P.martensii. Sản lượng ngọc ước khoảng 60 tấn mỗi năm, doanh thu ước khoảng 150 triệu USD và thu hút khoảng 50.000 lao động.- Về điều kiện khí hậu, thuỷ văn và môi trường: Trai sinh trưởng quanh năm, tốc độ tạo ngọc nhanh, chất lượng ngọc trai tốt. Ngọc trai của Việt Nam có khả năng cạnh tranh trên thị trường và được các chuyên gia của Nhật Bản đánh giá cao. 5. Mô hình nuôi cấy ngọc trai gắn với du lịch:- Trên thế giới, tại Trung Quốc, Inđônêxia đã triển khai rộng việc kết hợp nuôi cấy ngọc trai với du lịch làng nghề hay du lịch sinh thái. Mô hình nuôi cấy ngọc trai gắn với du lịch đã mang lại hiệu quả kinh tế, vừa nuôi cấy ngọc trai, vừa bảo vệ môi trường và vừa phát triển được du lịch.- Hình thức nuôi cấy ngọc trai gắn với du lịch làng nghề, du lịch sinh thái ở Việt Nam chưa phát triển. Đã có doanh nghiệp có bảo tàng minimum trưng bày sản phẩm ngọc trai, hàng trang sức ngọc trai, vỏ trai nhưng quy mô quá bé nhỏ, hình thức chưa hấp dẫn, sản phẩm chưa đa dạng phong phú nên chưa phát huy được tiềm năng kinh tế.- Nuôi cấy ngọc trai gắn với du lịch rất thích hợp ở vịnh Hạ Long. Vịnh Hạ Long hai lần được Unesco công nhận là di sản thiên nhiên thế giới, có vị trí giáp vịnh Bái Tử Long - vịnh Lan Hạ - đảo Cát Bà - đảo Ngọc Vừng… Ở những nơi này có những hang động nổi tiếng như: Thiên Cung, Đầu Gỗ, Sửng Sốt, Tam Cung, Mê Cung và có khu văn hoá làng chài Cửa Vạn. Một cùng biển lớn có trên 1.000 hòn đảo lớn nhỏ, tạo ra một quần thể du lịch rất hấp dẫn.- Vịnh Hạ Long có nhiều đảo nhỏ, tạo ra các eo vịnh kín, ít chịu gió bão, độ sâu phù hợp, hàm lượng động thực vật phù du nhiều, rất thích hợp nuôi cấy ngọc trai biển Akoya.- Khách du lịch tới Hạ Long ngày càng tăng. Việc phối hợp nuôi cấy ngọc trai với du lịch làng nghề, du lịch sinh thái làm phong phú, đa dạng hoá du lịch ở vịnh Hạ Long.
6. Mục tiêu của dự án:
- Đầu tư mở rộng nuôi cấy ngọc trai ở vịnh Hạ Long - Quảng Ninh, với công suất thiết kế 1,5 triệu con mỗi năm.
- Tham gia đầu tư phát triển ngành du lịch làng nghề nuôi cấy ngọc trai, du lịch sinh thái ở vịnh Hạ Long - Quảng Ninh.
- Kết hợp giữa sản xuất với du lịch, sản xuất và du lịch hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển.
7. Kế hoạch sản xuất:
- Trai nguyên liệu:
Năm thứ 1, trai cỡ 30-40g:
1,1 triệu con
Năm thứ 2 – 3 mỗi năm:
1,1 triệu con
Năm thứ 4 trở đi mỗi năm:
1,65 triệu con
- Dự tính sản lượng ngọc:
Năm thứ 1:
132 kg
Năm thứ 2:
132 kg
Năm thứ 3 trở đi, mỗi năm:
203 kg
- Dự tính khách du lịch:
15.000 – 20.000 lượt khách tham quan mỗi năm
- Sản xuất hàng trang sức:
Năm thứ 1 – 2:
5268 sản phẩm
Năm thứ 3 trở đi mỗi năm:
8110 sản phẩm
8. Vốn kêu gọi đầu tư: 12.000.000.000đ (Mười hai tỷ đồng chẵn). Thời gian hoạt động dự án trong 30 năm.
9. Hạch toán kinh tế:
- Doanh thu ước tính năm 2007: 9.825.220.000đ, năm 2008: 9.825.220.000đ, từ năm 2009 mỗi năm doanh thu 15.091.500.000đ.
- Lợi nhuận bình quân: 1.176.340.000đ/năm. Dự án đóng góp vào Ngân sách Nhà nước từ các khoản thu thuế 12 năm đầu là 17.851.380.000đ. Dự án tính điểm hoà vốn 42,4%. Giá trị thực hiện tại NPV: 33.465.990.000đ. Tỷ suất sinh lời nội bộ IRR: 13,03%. Thời gian thu hồi vốn 5 năm 8 tháng.
10. Hình thức đầu tư:
- Công ty bỏ vốn và huy động vốn để đầu tư.
- Hoặc kêu gọi vốn đầu tư trong nước, vốn đầu tư nước ngoài cùng hợp tác đầu tư.
Mọi chi tiết liên hệ: Sàn Bambibi
Điện thoại: 01252536678
Übersetzt wird, bitte warten..
